TRƯỜNG HỌC ĐẲNG CẤP - XÃ HỘI NHỎ VĂN MINH - ĐẠI GIA ĐÌNH ĐẦM ẤM

“TƯ DUY GIÁO DỤC CỦA TRƯỜNG THPT TRÍ ĐỨC”

 

 

  I. GIỚI THIỆU:

Từ xưa đến nay, sự phát triển của xã hội loài người về mọi mặt từ vật chất đến tinh thần, đều không thể thiếu vai trò của giáo dục. Giáo dục đóng vai trò quyết định trong việc thúc đẩy xã hội phát triển. Tương đồng với các cường quốc như Hoa Kì, Nhật Bản, Việt Nam cũng xem giáo dục là quốc sách hàng đầu. Thực tế cuộc sống đã chứng minh không có ưu tiên nào ý nghĩa lớn hơn ưu tiên cho giáo dục, mỗi sai lầm trong giáo dục sẽ ảnh hưởng đến cả một thế hệ, làm lụn bại thậm chí hủy diệt cả nhân loại.

Là người làm giáo dục suốt gần 50 năm qua, là người sáng lập, tổ chức, quản lý và điều hành duy nhất, được coi là “linh hồn” của trường THPT Trí Đức – ngôi trường cấp ba với mô hình “Nội trú đúng nghĩa” và độc nhất vô nhị giữa lòng Thủ đô từ những năm cuối thập niên 1990. Bản thân tôi luôn ý thức sâu sắc và trăn trở rằng, làm sao để các thế hệ học sinh Trí Đức nói riêng, cũng như học sinh cả Nước nói chung có được môi trường giáo dục tốt để phát triển cả “Trí – Đức – Thể – Mỹ”, để trở thành những công dân thực sự có ích cho xã hội, cho Đất nước và thành đạt trong lĩnh vực đời tư của mình. Để đạt được mục tiêu đó, điều cốt yếu phải có, trước hết đội ngũ những người làm công tác giáo dục cần có được “Tư duy giáo dục” đó là một hệ thống những vấn đề có thể coi là tư tưởng, quan điểm, phương châm, triết lý và những minh triết Giáo dục thực sự chân chính, kết hợp, hòa quyện được cả “Đạo” và “Đời”, vừa tiếp thu những tinh hoa đạo lý truyền thống của Dân tộc, vừa mang tính thời đại sâu sắc.

Cùng với bề dày gần 25 năm xây dựng, duy trì và phát triển trường THPT Trí Đức, với sự kết tinh giữa lý luận và thực tiễn, sự miệt mài tâm huyết, đắm mình với giáo dục phổ thông trong suốt quãng đời 25 năm gần như dành trọn thời gian gắn bó cùng ăn, ở, làm việc với học sinh nội trú, trực tiếp quản lý và giáo dục 25 thế hệ học sinh của Nhà trường, tôi đã chắt lọc, gọt giũa, đúc kết, xây dựng nên hệ “Tư duy giáo dục”. Đây là hệ thống những vấn đề có thể coi là “Tư tưởng, quan điểm, phương châm, triết lý và những minh triết Giáo dục của trường THPT Trí Đức”. “Tư duy giáo dục” được coi là thành tựu lớn nhất, đóng góp lớn nhất của trường Trí Đức cũng như cá nhân tôi cho sự nghiệp giáo dục Nước nhà và nay đã trở thành “Kim chỉ nam” cho mọi hoạt động giáo dục của Nhà trường.

TƯ DUY GIÁO DỤC TRÍ ĐỨC

Ôi! hai tiếng thiêng liêng Trí Đức …

Đức làm người và Trí để vươn lên !

Một mái Trường mang biểu tượng bông Sen

Lấy Trí Đức làm riêng tên gọi.

 

Mỗi Quan điểm, Phương châm, Triết lý

Của ngôi Trường Độc – Lạ, thân quen

Là bài học giúp Trò yêu thấu hiểu

Đạo làm người: Luật Nhân – Quả khắc ghi !

 

Nuôi ước mơ, gieo mầm khát vọng

Dạy tư duy, dạy “giá trị con người”

Rèn kỹ năng, trao hành trang cuộc sống

Tiếp lửa yêu thương đến tận muôn loài …

 

Trí Đức lấy tư duy giáo dục

Làm hạ tầng cơ sở nghĩ suy …

Làm cốt cách cho mọi hành vi …

Với Trí Đức, Thầy – Trò cùng lẽ sống !

                                                                                02/2000

       Phạm vi nội dung của bài viết đề cập tới cả năm cấp độ truyền thống của Giáo dục, từ cấp độ “Nhà nước và Ngành giáo dục”, cấp độ “Hệ thống giáo dục” đến các “cấp độ nhà trường”, “cấp độ bài học” và “cấp độ nhân cách”. Hình thức thể hiện bao gồm cả hình thức “tuyên ngôn” và “khuyến nghị”, “khuyến dụ”. Những vấn đề được nêu chủ yếu tập trung vào xác định vị trí, vai trò, nội dung, phương pháp và lĩnh vực quản lý của Giáo dục, những vấn đề thuộc nhà trường và giáo viên. Bên cạnh đó có một số vấn đề đề cập tới sự quan tâm của Nhà nước đối với giáo dục. Có một số vấn đề tuy không có từ ngữ liên quan trực tiếp tới Giáo dục nhưng nó lại đậm đặc bản chất vấn đề của Giáo dục. Tất cả đều hướng tới mục đích làm thế nào để Giáo dục đạt tới hiệu quả cao trong thực tiễn, đem lại nhiều hạnh phúc cho nhân dân và thế hệ trẻ, xứng đáng với trọng trách, với sứ mệnh vẻ vang của Giáo dục.

Về cách bố cục, để dễ theo dõi xin được trình bày thành ba phần như sau:

Phần 1: Những vấn đề chung hướng tới cấp độ Ngành giáo dục và cộng đồng xã hội.

Phần 2: Những vấn đề chủ yếu hướng tới cấp độ Nhà trường, Giáo viên và cha mẹ HS.

Phần 3: Những vấn đề chủ yếu hướng tới cấp độ người học (HS).

  II. NỘI DUNG

  PHẦN 1. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG HƯỚNG TỚI CẤP ĐỘ NGÀNH GIÁO DỤC VÀ CỘNG ĐỒNG XÃ HỘI.

  1. Trong vũ trụ, mọi trạng thái vật chất và siêu vật chất đều luôn tự chuyển động theo hình thái riêng biệt và ảnh hưởng lẫn nhau để hướng tới sự cân xứng, cân bằng và điều hòa. Đó là luật Vũ trụ – Đạo trời – Quy luật của mọi quy luật.
  2. Luật Vũ trụ sinh ra luật Nhân Quả: Trong vũ trụ, mọi sự vật, mọi hiện tượng vật chất và siêu vật chất đều vừa là nguyên nhân, vừa là kết quả của các hình thái chuyển động. Mọi hình thái chuyển động của vật chất và siêu vật chất đều có nguyên nhân và tạo kết quả.
  3. Luật Nhân Quả là phần quan trọng của Đạo Trời.
  4. Luật Nhân Quả bao trùm và chi phối vũ trụ, trong đó có nền văn minh trái đất của chúng ta!
  5. Luật nhân quả sinh ra “lẽ phải” – “lẽ đời” – “đạo lý” của con người.
  6. Trong vũ trụ này không có gì ngoài luật Nhân Quả!
  7. Hiểu đạo Trời, hiểu luật Nhân Quả và biết lẽ đời để biết sống làm người.
  8. Nhân nào quả nấy, cho nên trước khi hành xử bất cứ việc gì, hãy nghĩ kỹ đến hậu quả của nó!
  9. Luật Nhân Quả là cha đẻ của giáo dục.
  10. Luật Nhân Quả sinh ra tư duy nhân quả, tư duy nhân quả sinh ra tư duy biện chứng, tư duy lô gic và tư duy giáo dục.
  11. Tư duy nhân quả cốt lõi là: xem xét mọi sự việc, hiện tượng phải phân tích, truy tìm đúng nguyên nhân và kết quả.
  12. Tư duy Giáo dục cốt lõi là: Mọi quá trình, mọi hoạt động giáo dục – Dạy bảo, khai sáng đều không thể áp đặt mà phải dựa trên cơ sở, nền tảng của luật Nhân Quả, tư duy nhân quả.
  13. Mọi thứ từ vi mô đến vĩ mô, từ vạn vật đến con người, vật chất đến siêu vật chất, tinh thần, đều lấy cân xứng, cân bằng và điều hòa là tốt nhất.
  14. Luật Nhân Quả là chìa khóa vàng vạn năng, công hiệu để khám phá mọi bí ẩn của vũ trụ.
  15. Luật Nhân Quả là con đường dẫn dắt tới mọi nhận thức của nhân loại.
  16. Mọi phát minh khoa học của loài người chỉ là khám phá, hiểu thêm luật Nhân Quả.
  17. Không tin luật Nhân Quả là điều bất hạnh lớn trong cuộc đời.
  18. Tin vào luật Nhân Quả là mầm, hiểu đúng luật Nhân Quả là hoa, quả thơm ngon bổ dưỡng phải là hành động có trí tuệ.
  19. Hiểu sai luật Nhân Quả là điều bất lợi, cố tình hiểu sai và hành động sai là điều rất hại.
  20. Ở đời, ai hơn ai là sự thấu hiểu, tôn trọng và biết vận dụng đúng luật Nhân Quả.
  21. Khi xác định đủ và đúng nguyên nhân thì quyết định luôn đúng đắn sáng suốt.
  22. Giáo dục vừa là nhân, vừa là quả của mọi tiến trình phát triển của nhân loại.
  23. Giáo dục là cội nguồn của mọi văn minh và hạnh phúc của nhân loại.
  24. Mọi khai hóa đều bắt đầu từ giáo dục – Giáo dục để khai hóa.
  25. Mọi giá trị văn hóa, văn minh của nhân loại, đều là sản phẩm của giáo dục.
  26. Giáo dục là công việc ý nghĩa nhất trong tất cả những công việc có ý nghĩa của nhân loại!
  27. Giáo dục là do con người, của con người và vì con người.
  28. Lịch sử phát triển của giáo dục gắn liền với lịch sử phát triển của xã hội loài người.
  29. Nói đến cải cách của nhân loại, không có cải cách gì thiết thực, ý nghĩa và tốt đẹp hơn cải cách giáo dục chân chính.
  30. Giáo dục là cơ sở hạ tầng vững chãi nhất cho sự phát triển của mỗi quốc gia.
  31. Mọi khát vọng của Đất nước, không khát vọng nào bằng vươn lên đỉnh cao của giáo dục toàn diện, chân chính.
  32. Mọi thành tựu phát triển của Đất nước không gì không là sản phẩm của phát triển giáo dục.
  33. Đầu tư để phát triển Đất nước không gì bằng đầu tư vào giáo dục.
  34. Giáo dục là chiến lược phát triển Đất nước hiệu quả nhất!
  35. Với mỗi quốc gia, đầu tư cho giáo dục là sự đầu tư chiến lược thông minh, khôn ngoan và hiệu quả nhất.
  36. Nếu các quốc gia cùng chạy đua về giáo dục thay vì chạy đua về vũ trang thì trái đất này là thiên đường hạnh phúc của nhân loại.
  37. Giáo dục là bộ mặt văn hóa, là hồn sống của mỗi quốc gia và cả nhân loại.
  38. Giáo dục là sứ mệnh ý nghĩa nhất của mỗi quốc gia ở mọi thời đại!
  39. Sứ mệnh cốt lõi trường tồn của giáo dục là dạy cho người ta hiểu đạo trời, biết lẽ đời để biết sống làm người.
  40. Chức năng chính của giáo dục là đào tạo nên những con người chân chính, sống tích cực.
  41. Mục tiêu, nhiệm vụ cốt lõi của giáo dục là Nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài cho Đất nước.
  42. Đất nước cần người thế nào, hãy dạy, học và thi như thế nấy!
  43. Giáo dục cần tiên phong trong hội nhập quốc tế của Đất nước.
  44. Muốn hội nhập quốc tế, trước hết phải đồng ngôn ngữ quốc tế.
  45. Hội nhập quốc tế chỉ thành công khi biết tôn trọng và bảo vệ hệ “giá trị của Dân tộc, của Đất nước”.
  46. Hội nhập quốc tế phải đi đôi với phòng ngừa, ngăn chặn, loại bỏ sự du nhập mọi thứ không phù hợp, có hại, đặc biệt hại về môi trường tự nhiên và môi trường giáo dục.
  47. Nhà nước nào cũng có ba chức năng cốt lõi:

          Lo cho dân đủ ăn

          Đáp ứng đủ cho dân học tập

          Đảm bảo cho dân được bình an.

          Trong đó đáp ứng nhu cầu học là ý nghĩa nhất.

  1. Nhà nước được dân vừa yêu đúng, vừa sợ đúng thì xã hội tươi đẹp, việc gì cũng thành, chẳng lo thù trong giặc ngoài.
  2. Nhà nước mà chăm lo cho sự nghiệp giáo dục như cha mẹ chăm lo việc học của con em thì nghĩa tình trọn vẹn, Đất nước thịnh trị.
  3. Một xã hội mà từ lãnh đạo đến thường dân đều có quan điểm “Tầm sư học đạo” đúng đắn thì giáo dục và xã hội phát triển tốt đẹp, Đất nước thịnh trị.
  4. Cách nhìn nhận và đánh giá thành tích, thành công đối với giáo dục của Nhà nước là nguyên nhân quyết định hướng đi và chất lượng của nền giáo dục.
  5. Đổi mới hay cải cách giáo dục đều cần tôn trọng giá trị cốt lõi về đạo lý của Dân tộc và phát huy thành tựu nhân văn đã đạt được.
  6. Đổi mới và cải cách giáo dục trong khi hệ thống trường sư phạm lỗi thời khác nào xây lâu đài trên móng cũ ọp ẹp! Do đó phải đổi mới, cải cách ngành sư phạm trước hết.
  7. Hoạch định chính sách phát triển Quốc gia mà không ưu tiên phát triển giáo dục là thiếu sự căn cốt, thiếu bền vững!
  8. Qua tìm hiểu nền giáo dục, có thể biết được bản chất, trình độ và tương lai của một nhà nước, một chế độ xã hội.
  9. Một trong những thước đo sự tiến bộ và thành công của nền giáo dục là sự tiến bộ về ý thức công dân và năng suất lao động của cộng đồng xã hội.
  10. Giáo dục chỉ thành công khi ta biết bắt đầu từ những vấn đề, từ những việc nhỏ nhất, bình dị, đơn giản nhất trong cuộc sống.
  11. Giáo dục sẽ thuận lợi và thành công tốt hơn khi có sự phối hợp chặt chẽ, đồng bộ, hướng tới mục tiêu giáo dục của các lĩnh vực văn hóa văn nghệ và truyền thông.
  12. Văn hóa văn nghệ và truyền thông có sức ảnh hưởng nhanh nhạy, mạnh mẽ kỳ diệu tới giáo dục cả về hai mặt nên cần tỉnh táo, thận trọng.
  13. Muốn xây dựng xã hội học tập, trước hết phải xây dựng xã hội giáo dục mà tế bào là gia đình giáo dục.
  14. Đạo đức là nền tảng của mọi tiến bộ xã hội.
  15. Truyền thụ đạo đức cho con người là sứ mệnh cao cả nhất của giáo dục.
  16. Nền giáo dục rất cần có hệ “Giá trị bản thân” tiêu chuẩn của con người chân chính thời đại mới để dẫn dắt mọi hoạt động giáo dục.
  17. Đất nước nào có và giúp cho thế hệ trẻ thực hiện đúng đắn hệ “giá trị bản thân”, đất nước đó sẽ phát triển thịnh vượng bền vững.
  18. Không có trí tuệ nào đẹp và cao hơn trí tuệ làm người.
  19. Không có nghệ thuật nào đẹp và cao hơn tình yêu thương con người.
  20. Bất kể thời đại nào, chế độ xã hội nào đều cần sự bình an, mà trước hết là bình an nội tâm con người.
  21. Nội tâm con người chỉ vững vàng và bình an khi có đạo đức làm nền tảng cốt lõi, làm linh hồn soi sáng.
  22. Đạo đức cộng đồng xã hội chỉ được duy trì, phát triển trong môi trường sống giáo dục chân chính và ngược lại.
  23. Ở đâu có nền giáo dục chân chính phát triển, ở đó có chế độ xã hội hợp lòng dân, đất nước thịnh trị.
  24. Ở đâu coi việc làm giáo dục chỉ đơn thuần là nghề mưu sinh thì ở đó không hề có giáo dục chân chính.
  25. Muốn có nền giáo dục chân chính phát triển, phải có đội ngũ nhà giáo chân chính tài năng.
  26. Các nhà trường sư phạm cần đào tạo ra những nhà giáo, thay vì chỉ đào tạo thợ làm nghề dạy học.
  27. Nhà giáo sẽ làm gì và giáo dục cho HS những gì thì Nhà trường sư phạm hãy dạy và rèn cho học viên như thế nấy!
  28. Muốn có đội ngũ nhà giáo chân chính tài năng, phải tuyển chọn và đào tạo toàn diện, công phu, phải tôn trọng và đãi ngộ tương xứng.
  29. Đội ngũ nhà giáo đạt tiêu chuẩn, hùng hậu là tài sản lớn nhất, quan trọng nhất, tài sản vô giá của nền giáo dục quốc gia.
  30. Đội ngũ nhà giáo đạt tiêu chuẩn, hùng hậu là linh hồn quyết định chất lượng của nền giáo dục, quyết định tương lai phát triển của quốc gia.
  31. Quyết sách vấn đề trọng đại của giáo dục phải là nhà tư tưởng lớn, am hiểu giáo dục và có minh triết giáo dục.
  32. Người lãnh đạo phải hơn quần chúng ở tầm nhìn xa trông rộng, nhạy bén, sâu sắc, dự kiến được tương lai.
  33. Nhà lãnh đạo chân chính, có tâm, có tầm bất kể ở lĩnh vực nào phải là người có am hiểu giáo dục, quan tâm tới giáo dục.
  34. Lãnh đạo giáo dục phải là nhà giáo chân chính, là kiến trúc sư giáo dục.
  35. Người lãnh đạo và người làm giáo dục cần có tư duy Nhân quả, tư duy biện chứng, tư duy lô gic và tư duy giáo dục.
  36. Nguồn nhân tài chẳng khi nào thiếu

      Chỉ thiếu người biết sử dụng tài!

  1. Người biết sử dụng nhân tài, trước hết phải biết nhận diện nhân tài.
  2. Người giỏi nói về giáo dục, chưa hẳn đã biết làm giáo dục.
  3. Người không dạy nổi con, không thể làm lãnh đạo giáo dục.
  4. Không quản lý được con, không thể quản lý người, không thể làm lãnh đạo.
  5. Người sống chân chính luôn trọng nghĩa hơn tài.
  6. Người thực tâm nguyện vì dân, vì nước là người luôn nghĩ tới gánh vác trọn vẹn công việc, không đòi hỏi chức, quyền, danh lợi.
  7. Biết mình không xứng đáng, không nhận quyền, danh, lợi. Đấy là người chân chính.
  8. Người chân chính không tranh quyền, danh, lợi.
  9. Từ chức đúng đắn luôn là nét văn hóa cần và đẹp ở mọi chế độ nhà nước, mọi thời đại.
  10. Nhà lãnh đạo và nhà giáo chưa được người dưới quyền yêu đúng, sợ đúng thì làm việc chưa hiệu quả.
  11. Một xã hội mà hệ thống cơ sở vật chất giáo dục thiếu thốn lạc hậu, còn các công sở đầy đủ, sang trọng thì hệ thống lãnh đạo ở đó cần cải tổ.
  12. Không bao giờ và không ở đâu có xã hội không có tham nhũng.
  13. Chống tham nhũng “bài bản”, hiệu quả cần bắt đầu từ chương trình của nền giáo dục chân chính và hệ thống pháp luật vì con người.
  14. Quy luật cơ bản của tham nhũng và chống tham nhũng thường theo trình tự: trên trước dưới sau, trong trước ngoài sau.
  15. Người tham nhũng dạng nào cũng là một dạng người hại dân.
  16. Làm phúc không gì bằng làm giáo dục chân chính.
  17. Bản chất thực đơn giản của giáo dục là dạy bảo, khai sáng.
  18. Hoạt động trung tâm, cốt lõi của giáo dục là dạy và học.
  19. Giáo dục là năng lực tự nhiên tạo hóa ban cho loài người để tồn tại và phát triển.
  20. Đầu tư cho giáo dục, trước hết và quan trọng nhất là phải có “Chương trình giáo dục chuẩn”, thiết thực và nhân văn.
  21. “Chương trình giáo dục chuẩn” phải có nội dung giáo dục toàn diện hướng tới đào tạo công dân toàn cầu, đạt chuẩn quốc tế, thiết thực với quốc gia, tích hợp kiến thức liên quan, có nội dung phát triển năng lực và phẩm chất.
  22. Có “Chương trình giáo dục chuẩn” mới là hoa, quả thơm ngon phải là những bộ “Sách giáo khoa chuẩn” theo đúng chương trình chuẩn.
  23. Sách giáo khoa vừa là bộ mặt, vừa là yếu tố đánh giá trình độ chung của nền giáo dục, là khâu quan trọng nhất quyết định chất lượng giáo dục.
  24. Nếu sách giáo khoa không đạt yêu cầu, không dùng được, đó là một sự tổn thất tệ hại, vô cùng lớn về nhiều phương diện, là điều đáng hổ thẹn không chỉ với nền giáo dục mà còn với cả Quốc gia.
  25. Muốn có những bộ “Sách giáo khoa chuẩn”, phải tuyển chọn từ những nhà giáo chân chính tài hoa, thuộc đẳng cấp “Nghệ nhân giáo dục”, có trình độ làm chủ nội dung chương trình môn học cấp học để đảm trách biên soạn.
  26. Những bộ “Sách giáo khoa chuẩn”, chỉ thực sự là chuẩn sau khi đã được thẩm định chuẩn.
  27. Để có “Sách giáo khoa chuẩn”, điều cốt lõi là trao nhiệm vụ viết sách và thẩm định sách cho đúng các nhà giáo đủ điều kiện, đủ tầm, đáp ứng đúng yêu cầu mục tiêu của sách.
  28. Cần có quy định: Người quyết định chọn người viết và thẩm định sách giáo khoa phải chịu trách nhiệm cao nhất về lương tri nhân phẩm, pháp lý và tài chính.
  29. Giáo dục cần có tiêu chí về nội dung, mục đích của hoạt động “trải nghiệm” thiết thực trong nhà trường.
  30. Giáo dục cần phải làm cho xã hội hiểu đúng “lấy dân làm gốc”, nhà trường hiểu đúng “lấy học sinh làm trung tâm”.
  31. Giáo dục cần làm cho xã hội hiểu và hành động đúng ý nghĩa cao đẹp của việc “từ thiện”.
  32. Một nền giáo dục chưa có chương trình giáo dục giới tính, giáo dục làm cha, làm mẹ và giáo dục nhân quyền, chưa phải là nền giáo dục thực sự nhân văn.
  33. “Tôn trọng sự thật” là tiêu chí quan trọng đánh giá bản chất tốt đẹp của một chế độ xã hội.
  34. Công tác thi đua quý ở thiết thực, mục đích đúng đắn tốt đẹp và thực chất, tránh ganh đua, a dua.
  35. Thi đua đúng hướng phải là: mục đích chung, chỉ tiêu riêng, mọi người đều thắng.
  36. Với mỗi người, tụt hậu về sự hiểu biết và tâm hồn, với quốc gia tụt hậu về giáo dục đều là sự tụt hậu tuyệt đối, đáng hổ thẹn và nguy hiểm nhất.
  37. Đất nước muốn công dân có năng lực và năng suất làm việc cao, hãy coi trọng giáo dục phát triển năng lực cho HS.
  38. Không có chương trình giáo dục phát triển năng lực mà kiểm tra, đánh giá năng lực HS, khác nào câu cá trên cây.
  39. Cả thầy và trò không được giáo dục phát triển năng lực mà kiểm tra, đánh giá năng lực HS là nghịch lý.
  40. Bồi dưỡng HSG theo kiểu luyện “vận động viên thi olympic”, chỉ làm thui chột, lãng phí nhân tài.
  41. Cần có quan điểm và “tiêu chí chuẩn” về HSG các cấp, có quy chế tổ chức thi và sử dụng kết quả thi đúng đắn, ổn định.
  42. Trường chuyên, lớp chuyên mà tràn lan nhan nhản, chỉ là “chuyên chiêu”!
  43. Học sinh chuyên đúng nghĩa đã là hạt giống thực tốt, quý như ngọc trong đá. Chẳng mài giũa nó cũng đã đẹp, tỏa sáng. Phải được nhà giáo chân chính tài hoa xuất chúng mới làm cho nó sáng đẹp hơn, quý hơn.
  44. Mọi sự gia công, bồi đắp cho học sinh chỉ với mục đích để đạt giải cao trong thi cử đều mất nhiều hơn được!
  45. Mọi chế độ ưu đãi, ưu tiên về chính sách không nên cộng điểm vào kết quả các cuộc thi, bởi chỉ có hại cho nền giáo dục.
  46. Chúng ta nên trăn trở, xót xa: Vấn đề viết sách giáo khoa, tổ chức thi tốt nghiệp THPT và tuyển sinh vào Đại học có quá khó hay không mà đã già nửa thế kỷ, nền giáo dục Nước nhà vẫn loay hoay chưa tìm ra giải pháp phù hợp ổn định?
  47. Một vấn đề rất đáng đặt câu hỏi: Nửa thế kỷ qua, năm nào chúng ta cũng giành nhiều giải Olympic Quốc tế các môn khoa học, thế mà chưa có ai trong số đó có đóng góp xứng tầm cho sự phát triển Đất nước?
  48. Vấn đề thực tế cần suy nghĩ: Một số HS khi còn học trong Nước chưa có thành tích, danh hiệu gì đáng kể, nhưng sau khi tu nghiệp ở các nước phát triển lại trở thành của Quý, được họ “săn mời” làm việc!
  49. Vấn đề đào tạo cán bộ nguồn cũng nên xem xét: Nhiều cán bộ lãnh đạo có chức quyền vi phạm kỷ luật nghiêm trọng gây thiệt hại lớn cho Đất nước, có phải vì “thoái hóa, biến chất” hay vì việc “chọn đầu vào” đào tạo đã nhầm?
  50. Việc học và thi nghề phổ thông lấy chứng chỉ để hưởng các quyền lợi trong đó có cộng điểm vào kết quả thi tốt nghiệp THPT, xưa nay có nhiều vấn đề bất lợi, cần giải quyết?

PHẦN 2: NHỮNG VẤN ĐỀ CHỦ YẾU HƯỚNG TỚI CẤP ĐỘ NHÀ TRƯỜNG, GIÁO VIÊN VÀ CHA MẸ HỌC SINH.

  1. Mọi sinh vật và con người đều có các bản năng: Tồn tại, thích nghi và phát triển.
  2. Con người là linh trưởng của vạn vật, song bản tính tự nhiên không bao giờ mất.
  3. Sinh ra, ai cũng sẵn có hai thuộc tính: tham và lười.
  4. Người ta không bao giờ thay đổi hẳn và vứt bỏ hoàn toàn được bản chất mà chỉ là khi rõ khi mờ. Rõ hay mờ là do giáo dục.
  5. Giáo dục trong nhà trường là do HS, của HS, vì HS.
  6. Bất cứ lĩnh vực nào, làm việc gì và với ai đều cần lấy người đó làm trung tâm. Giáo dục càng phải thế.
  7. Bản chất của giáo dục (dạy học) “lấy HS làm trung tâm” là thường xuyên kết hợp linh hoạt, nhuần nhuyễn giữa: Tương tác – Giao tiếp – Phản hồi – Lắng nghe – Cảm nhận – Ghi nhận của Thầy và Trò.
  8. Khi học trò không có cảm nhận được thầy, cô thực sự yêu thương thì mọi lời giảng, mọi điều khuyên của thầy, cô sẽ như người rèn sắt nguội.
  9. Mỗi bài giảng, mỗi tiết học mà như thầy, trò giao lưu, chia sẻ về điều mới lạ hấp dẫn, thì tiết học sẽ nhẹ nhàng và thành công.
  10. Mỗi khi giảng bài, hoặc khuyên nhủ học trò mà thầy miệng nói, tai nghe, mắt quan sát, đầu nghĩ, tâm cảm nhận và tự thấy mình được khai sáng, hấp dẫn, thú vị thì trò sẽ thấy hấp dẫn, cuốn hút.
  11. Sau mỗi bài giảng, mỗi tiết học cả thầy và trò đều vui vẻ, lưu lại được dấu ấn đẹp đáng nhớ và đôi điều hiểu biết mới thì tiết học hiệu quả cao.
  12. Muốn người khác thế nào, trước hết mình hãy như thế nấy.
  13. Trao cho người một yêu cầu cao nhất, đó là yêu mến, tôn trọng và tin tưởng họ.
  14. Phương châm giáo dục I của Trường Trí Đức là: Kết hợp “Pháp trị” với “Đức trị”:

Đức trị là mục tiêu

Pháp trị là phương tiện

Cần phải có nội quy

Đầy đủ và chuẩn mực.

Thầy cô luôn gương mẫu

Học trò luôn thấm nhuần

Tu chỉnh và làm theo

Tất cả đều thành đạt!

                                                 01/1999

  1. Phương châm giáo dục II của Trường Trí Đức là: Biến quá trình giáo dục của Thầy thành quá trình “Tự giáo dục” của Trò: Thầy chủ đạo hướng dẫn, Trò chủ động thực hiện.
  2. Nhà trường cần có phong cách giáo dục khoa học, sáng tạo và thiết thực.
  3. Nhà trường cần có phong cách giáo dục nền nếp, kỷ cương, thân thiện và hợp tác.
  4. Nhà trường cần có phong cách giáo dục hiện đại, hấp dẫn và hiệu quả.
  5. Nhà trường, Thầy giáo và sách vở chẳng bao giờ dạy hết được tất cả mọi kiến thức cần biết cho HS song lại dạy được điều để HS tự học được tất cả.
  6. Điều cốt lõi của việc dạy và học là dạy và học cách tư duy và cách học.
  7. Coi trọng dạy cách tư duy, cách quan sát (cách nhìn, cách nghe …) là yếu tố quan trọng trước hết, mở cửa cho mọi nhận thức vào não bộ.
  8. Dạy cho HS thói quen tò mò khoa học, biết cách nêu nhiều câu hỏi, nhiều thắc mắc theo nhiều hướng suy nghĩ về một vấn đề và tự trả lời các câu hỏi đó.
  9. Dạy cho HS biết cách phát hiện “vấn đề” sau quan sát, sau các câu hỏi tự nêu. Đây là đầu mối, tiền đề của mọi nhận thức.
  10. Dạy HS thói quen và biết cách truy tìm các nguyên nhân, các kết quả có thể có của một sự việc, hiện tượng. Biết xác định nguyên nhân chính và kết quả chính.
  11. Dạy HS phân tích, sắp xếp các lí do, các kết quả của sự việc, hiện tượng theo chuỗi liên kết lôgic thành quy luật, thành lí lẽ có tính thuyết phục.
  12. Dạy HS biết nhận xét, đánh giá khách quan về các sự việc, hiện tượng.
  13. Dạy HS biết cách suy luận, phán đoán, dự đoán tương lai từ các sự việc, hiện tượng.
  14. Dạy HS biết so sánh, hợp thành từng nhóm giống nhau từ các sự việc, hiện tượng rời rạc.
  15. Dạy HS biết cách diễn giải, phản biện, tranh luận về nội dung của sự việc, hiện tượng.
  16. Dạy, phải bám sát đối tượng, dạy kỹ kiến thức cơ bản, dạy đến tận cùng vấn đề “cách vật trí tri” để HS hiểu đúng bản chất.
  17. Dạy đâu chắc đấy, dạy đâu luyện đấy, hổng đâu bù đấy.
  18. Coi trọng dạy phương pháp nghiên cứu, truy tìm bản chất vấn đề, bản chất sự vật, hiện tượng.
  19. Coi trọng dạy phương pháp phân tích, khái quát và tổng hợp để rút ra kết luận của vấn đề.
  20. Nhiệm vụ quan trọng của giáo dục là dạy cho người ta bốn điều biết: Biết tư duy tích cực, Biết cách học tích cực, Biết yêu đúng và Biết sợ đúng.
  21. Dạy kiến thức kết hợp dạy phương pháp học – cách tự học và cùng học đúng đắn.
  22. Người giáo viên đúng nghĩa phải là một nhà giáo chân chính, chứ không phải chỉ là người làm nghề dạy học.
  23. Không dạy nổi con, không thể dạy người, không thể làm giáo viên.
  24. Thước đo hiệu quả của giáo dục là làm cho người ta biết tự thay đổi bản thân theo những chuẩn mực chân chính.
  25. Chỉ cần mỗi ngày đi học về, trò vui và có thay đổi tích cực dù nhỏ, là biết đang được giáo dục tốt.
  26. Người làm giáo dục phải như nghệ nhân uốn cây cảnh!
  27. Nhà giáo dục chân chính, thành công chính là “Nghệ nhân giáo dục” – Nghệ nhân của mọi nghệ nhân.
  28. Cẩm nang của người thầy giáo là động viên, khích lệ và truyền cảm hứng.
  29. Truyền cảm hứng, khơi gợi, kích thích tính tò mò, khiến HS ham học là đã chuyển hóa được ý thức, tâm hồn, phẩm chất HS.
  30. Giáo dục lắng đọng, hiệu quả không phải bằng lời nói văn hoa, hùng biện mà bằng ảnh hưởng của trái tim và cuộc đời mình.
  31. Thước đo sự thành công và cống hiến của người thầy giáo là những ảnh hưởng tốt đến cuộc đời HS.
  32. Bí quyết thành công của người thầy giáo là làm sao để HS vừa biết yêu đúng vừa biết sợ đúng.
  33. Thầy giáo phải là người luôn ham học mới truyền được cảm hứng cho HS thích học, phải là “thầy học” mới dạy cho HS biết cách học.
  34. Năng lực vượt trội đáng quý của người thầy giáo là phát hiện, bồi dưỡng nhân tài.
  35. Dạy cho trẻ biết yêu thương bản thân đúng cách là đã trang bị phẩm chất tốt và hành trang cơ bản để vào đời.
  36. Để HS biết yêu đúng và biết sợ đúng là hai điều cốt lõi trong giáo dục đạo đức.
  37. Học gì, làm gì cũng để làm người, nên phải coi trọng dạy cho HS biết làm người.
  38. Điều quan trọng của đức dục là phải giáo dục lòng từ tâm, bởi đó là căn cứ địa của tâm hồn.
  39. Dạy cho HS hiểu đúng nội dung, ý nghĩa và giúp HS thực hiện đúng đắn hệ “Giá trị bản thân”.
  40. Dạy cho HS hiểu và coi trọng cả ba khâu trong tu dưỡng – hành động để đạt được nhân cách toàn vẹn là: Tu thân, xử thế và dưỡng sinh.
  41. Giúp HS hiểu và có quan điểm đúng đắn về các quyền sở hữu hợp pháp, hợp đạo lý của con người.
  42. Giúp HS hiểu và có quan điểm tích cực về sự giàu nghèo đối với các loại tài sản: sức khỏe, vật chất và tinh thần.
  43. Dạy cho HS có nhận thức: người cho nhiều nhất là người giầu nhất.
  44. Dạy cho HS hiểu rằng người cho đi nhiều nhất là người đáng khâm phục và đáng kính trọng nhất.
  45. Giáo dục cho HS: dù xuất sắc đến đâu cũng luôn khiêm tốn, cầu thị, không bao giờ tỏ ra tự phụ, kiêu ngạo.
  46. HS cần được dạy cách tiếp cận công việc, thái độ và kỹ năng hợp tác, kỹ năng làm việc nhóm.
  47. Khuyến khích và hướng dẫn HS có thói quen và kỹ năng thu hút người khác, biết thuyết phục người khác tin và ủng hộ mình …
  48. Chú trọng dạy đức tính nghiêm túc, trách nhiệm, kiên nhẫn, cẩn thận và hiệu quả trong từng việc nhỏ.
  49. Cần phát hiện, khuyến khích, hỗ trợ những HS có tố chất đặc biệt, có ước mơ hoài bão lớn lao, muốn được cống hiến và làm lãnh đạo.
  50. Giúp và khuyến khích HS theo đuổi bất cứ ước mơ nào đã có, trừ điều xấu.
  51. Giúp HS sớm tự tìm hiểu bản thân, đánh giá đúng sở trường, nguyện vọng, tình yêu nghề nghiệp để nuôi ước mơ sự nghiệp ngay khi còn đang trên ghế nhà trường.

                                                           03/2001

  1. Rèn thói quen và kỹ năng liên hệ, vận dụng lý thuyết với thực tiễn cuộc sống kinh tế, chính trị và xã hội.
  2. Luôn khuyến khích và đánh giá cao các tiêu chí về phương pháp tư duy, phương pháp làm việc, phương hướng giải quyết vấn đề hơn là kết quả cụ thể.
  3. Coi trọng đánh giá các khả năng, kỹ năng phát hiện và nêu vấn đề, cách trình bày vấn đề theo các tiêu chí lô gic, rõ ràng, cụ thể và chính xác.
  4. Coi trọng đánh giá khả năng phản ứng, phản xạ nhanh nhạy, chính xác trước các tình huống.
  5. Coi trọng đánh giá khả năng, kỹ năng xử lý tình huống, giải quyết vấn đề theo các tiêu chí đúng và trúng, toàn diện và đồng bộ, hợp lý khoa học, đầy đủ chính xác, rõ ràng dễ hiểu, đơn giản ngắn gọn, hài hòa tránh cực đoan.
  6. Coi trọng đánh giá khả năng, kỹ năng kiềm chế để có cảm xúc phù hợp trước các tình huống.
  7. Coi trọng đánh giá về ý thức, tinh thần và đặc biệt thái độ làm việc.
  8. Coi trọng đánh giá về ý thức, tinh thần và thái độ hợp tác trong công việc.
  9. Coi trọng đánh giá về ý thức, tinh thần và thái độ tôn trọng, phục tùng tổ chức, kỷ luật, tinh thần tập thể, đức cống hiến.
  10. Luôn đối xử nhẹ nhàng với HS nhưng không vuốt ve nuông chiều, luôn yêu cầu cao để HS được rèn như lửa luyện thép.
  11. HS biết sợ khi làm thầy buồn và khi bị trách phạt không xa lánh thầy, đấy là dấu hiệu giáo dục tốt.
  12. Học trò lo cho thầy mỗi khi thầy không khỏe, lo khi lớp có lỗi hoặc khi thấy thầy không vui. Đấy là dấu hiệu trò vừa biết yêu đúng, vừa biết sợ đúng.
  13. Khi lớp có lỗi, trò rủ nhau gặp thầy nhận lỗi, xin cùng nhau sửa lỗi. Đấy là dấu hiệu giáo dục thành công.
  14. Trò thích khoe thầy thay đổi tích cực và ưu điểm của lớp. Đấy là dấu hiệu cả lớp đang được giáo dục tốt.
  15. Trò không dấu lỗi của mình, của lớp, muốn chia sẻ, tâm sự với thầy để xin lỗi thầy và chia sẻ cả điều sâu kín khác để xin thầy lời khuyên. Đấy là trò được ảnh hưởng tốt từ thầy.
  16. Khi bạn trong lớp mắc lỗi, trò rủ nhau xin thầy được cùng giúp bạn sửa lỗi. Đấy là một tập thể được giáo dục thành công.
  17. Bất kể lỗi lầm gì của người ta đều không phải chỉ do họ gây nên mà luôn còn do người khác.
  18. Khi học sinh vô lễ, chống đối, trước hết người thầy giáo phải xem lại cách hành xử của mình!
  19. Trong nhà trường, mọi vấn đề phát sinh chưa tốt đều có phần lỗi thuộc về lãnh đạo và giáo viên, trong đó Hiệu trưởng chịu trách nhiệm trước hết và cao nhất.
  20. Khi nhà trường có vụ việc không tốt do bất cứ cán bộ, giáo viên, HS nào gây ra mà Hiệu trưởng xin lỗi toàn trường và hứa giải quyết lý, tình trọn vẹn là cách hành xử đúng đắn, giữ được uy tín cho cả Nhà trường và Hiệu trưởng.
  21. Khi thầy có sơ xuất hoặc HS của thầy phạm lỗi mà thầy thành thật xin lỗi và điều chỉnh, giải quyết thỏa đáng vui vẻ là thầy đã giữ được cho cả mình và nhà trường sự tín nhiệm của mọi người.
  22. Thực hiện đồng phục lịch sự, đẹp, có lý tưởng của trường HS sẽ tin yêu, tự hào về bản thân và nhà trường.
  23. Nhà trường có ca khúc riêng khắc họa hoài bão ước mơ, mục tiêu phấn đấu và nét truyền thống đẹp nổi bật của HS, đó sẽ là động lực mạnh mẽ, thường xuyên “tiếp lửa” cho HS nỗ lực học tập tu dưỡng.

                                                                                                                  02/2000

 

  1. Nhà trường có bản sắc, phong cách truyền thống riêng, đẹp và hấp dẫn sẽ khiến HS luôn yêu, tự hào về trường, từ đó có cảm hứng yêu thích học tập tu dưỡng.

TRÍ ĐỨC CẢNH

Lục hợp (1) tam không (2) dựng cảnh Trường

Học trò cả Nước có lạ không?

Thầy, Trò nội trú tình ruột thịt

Học, sống, luyện rèn khác mọi nơi !

Giáo dục đức Nhân vốn lẽ đời

Khơi trong, gạn đục giữ tinh hoa

Kỹ năng, tri thức cùng trải nghiệm

Qua tấm gương đời Ta thấy Ta !

 (1)  Lục hợp: Hợp Thiên, hợp Thổ, hợp Đạo, hợp Thời, hợp Nhân, hợp Mệnh.

(2) Tam không: Không hư danh, không trục lợi, không cưỡng cầu.

                                                                          03/2001

BỐN MÙA TRÍ ĐỨC

Bốn mùa Trí Đức đẹp sao

Tháng Giêng khai hội đón trao xuân tình …

Hè lên Trí Đức luyện mình

Không gian tĩnh mịch lặng thinh rèn tài

Thu vàng vương hạt sương mai

Trẻ về Trí Đức đua tài lập thân

Lạnh đông phong chẳng ngại ngần

Mái trường Trí Đức ân cần chở che !

                                                               01/2001

PHONG CÁCH HỌC SINH TRÍ ĐỨC

 

Bốn thật (1), bốn không (2) tự luyện mình

Lời Thầy dăn dạy dạ đinh ninh

Trai tài, gái lịch càng thêm giỏi

Nuôi ước mơ xanh, trọng học hành.

Trí Đức, vườn ươm nhân tài thật

Cần chi lấy tiếng lụy hư vinh

Tiên Rồng nòi giống mai tươi sáng

Vận hội tương lai tại chúng mình !

 

(1) Bốn thật: Học thật, nói thật, làm thật, sống thật.

(2) Bốn không: Không dính líu tới các tệ nạn xã hội; không hút thuốc lá; không nói tục chửi bậy; không xíc míc, ẩu đả 

                                                                                04/2000

 

  1. Các Nhà trường ở mọi cấp học cần tiên phong trong lĩnh vực giáo dục làm người.
  2. Mỗi Nhà trường đều xây dựng thành công mô hình “ba” trong “một”: Trường học đẳng cấp – Xã hội nhỏ văn minh – Đại gia đình đầm ấm, thì nền giáo dục sẽ phát triển rực rỡ tạo bệ phóng cho Đất nước phát triển bền vững.
  3. Giáo dục gia đình không là nền tảng tốt, thì giáo dục nhà trường và xã hội khó có thể thành công.
  4. Nhà trường và giáo viên chủ động liên tục kết nối chia sẻ thông tin hai chiều với phụ huynh thì việc học tập, rèn luyện tu dưỡng của HS sẽ luôn được kiểm soát đúng hướng, kết quả.
  5. Giáo viên thường xuyên chia sẻ, cung cấp kiến thức, kỹ năng về tâm lý và phương pháp sư phạm giúp phụ huynh quản lý, khích lệ, giáo dục HS chính là giáo viên đã gián tiếp giáo dục HS thông qua phụ huynh, hiệu quả sẽ rất tốt.
  6. Giáo viên và phụ huynh HS luôn thấy không thể thiếu sự phối hợp, HS luôn thấy mình như có hai cha (mẹ) thì HS được hưởng sự giáo dục tốt nhất, là người hạnh phúc nhất.
  7. Bổn phận quan trọng và cao quý nhất của cha mẹ là giáo dục cho con hiểu Đạo Trời, biết lẽ đời để con biết làm người.
  8. Xuất phát điểm của giáo dục gia đình là cần bồi dưỡng cho trẻ tinh thần khai phá để có thể trở thành con người tự nuôi sống mình.
  9. Dù cha mẹ rất giàu có, thì cũng hết sức quan tâm giáo dục con năng lực tự mưu sinh.
  10. Không dạy cho trẻ biết bổn phận làm con, thì sau sẽ không biết bổn phận làm người.
  11. Nếu cha mẹ để cho trẻ sống theo sở thích của nó, thì lớn lên sẽ trở thành người có mọi tính xấu, người vô tích sự.
  12. Cha mẹ cần phải dạy cho con cách vâng lời vô điều kiện ngay từ buổi đầu, thì sau con sẽ nên người.
  13. Đứa con nên người là tài sản lớn nhất, quý nhất, tài sản vô giá không gì có thể so sánh của các bậc cha mẹ. Điều đó cũng đúng với mỗi quốc gia!
  14. Cha mẹ mà được con tôn vinh làm thần tượng thì gia đình đại phúc, đại thịnh.
  15. Các thầy giáo, cô giáo là những người có nhiều bạn nhất và giàu tình yêu thương nhất.
  16. Có gì vui hơn và hạnh phúc hơn là được vun trồng tương lai cho thế hệ trẻ.
  17. Các thầy giáo, cô giáo là những người nắm trong tay một phần lớn tương lai của Đất nước, của nhân loại.
  18. Nghề dạy học gắn liền với sự cao quý của mỗi dân tộc, mỗi quốc gia và mọi nền văn minh nhân loại.
  19. Thế gian này không ai hạnh phúc hơn thầy giáo, cô giáo.

PHẦN 3: NHỮNG VẤN ĐỀ CHỦ YẾU HƯỚNG TỚI CẤP ĐỘ NGƯỜI HỌC.

  1. Con người khác con vật ở sự làm chủ bản thân, làm chủ suy nghĩ, làm chủ hiểu biết.
  2. Hiểu biết là hiểu đủ, hiểu đúng nguyên nhân và kết quả.
  3. Sự hiểu biết là vốn quý mang đến cho con người mọi niềm vui cuộc sống và hạnh phúc.
  4. Sự hiểu biết không phải do bẩm sinh, không do thừa kế, không mua bán, không vay mượn được.
  5. Muốn có sự hiểu biết thì phải học. Muốn có nhiều hiểu biết và muốn hiểu biết rộng, cao, sâu càng phải học nhiều.
  6. Học gì, hiểu biết gì cuối cùng cũng để biết làm người.
  7. Biết làm người thì phải biết chung sống.
  8. Không học gì bằng học làm người.
  9. Không học gì dễ bằng và cũng không học gì khó bằng học làm người.
  10. Không làm gì dễ bằng và cũng không làm gì khó bằng làm người.
  11. Làm gì cũng cần phải làm bằng cái đầu trước.
  12. Cần học để biết cách tư duy trước khi làm một việc: phải xác định rõ mục đích làm việc đó để làm gì, phải làm những gì, bằng những cách nào và chọn cách làm tối ưu.
  13. Việc gì cũng có nhiều pháp giải, song chỉ có một cách tối ưu.
  14. Bất cứ lĩnh vực nào và việc gì cũng cần phải làm tuần tự và đúng cách.
  15. Cần rèn thói quen “giờ nào việc nấy, làm việc và học tập có kế hoạch”.
  16. Điều quan trọng không phải ở vị trí ta xuất phát mà là mục tiêu ta hướng tới.
  17. Người khôn tìm khách hàng kỹ tính, vừa được giá cao lại học được nhiều.
  18. Học trò thông minh tìm thầy nghiêm túc, được dạy toàn diện, học đào sâu, được rèn tính tự cường.
  19. Cần hiểu tại sao kẻ thù lớn nhất của mỗi người là chính mình.
  20. Cần hiểu tại sao tự đánh mất mình là sai lầm lớn và nguy hiểm.
  21. Cần hiểu vượt qua chính mình là gì, là thế nào, làm được điều đó có ý nghĩa gì và có lợi gì để tự rèn.
  22. Cần hiểu ý nghĩa của sự thật và cần tự rèn để luôn sống thật.
  23. Chuộng sự thật là tinh thần và lẽ sống của người chân chính.
  24. Cần hiểu sự biển lận, dối trá, bưng bít khuyết điểm là thiếu đạo đức và là sự ngu dốt.
  25. Người có tính lừa dối, khúm núm và nịnh hót là kẻ hèn nhát, rất dễ phản bội và mất lòng tin.
  26. Kẻ hèn yếu luôn tìm lối thoát bằng cách nói dối.
  27. Người có bản lĩnh và nghị lực thì luôn nhìn thẳng sự thật.
  28. Đối với thanh niên, đôi khi cãi nhau vì công việc còn tốt hơn là lịch sự giả dối.
  29. Điều cốt lõi để biết làm người là biết yêu thương để sống và biết sống để yêu thương.
  30. Biểu hiện của đạo đức trước hết là lòng yêu thương con người.
  31. Người có sự hiểu biết, trước hết phải biết yêu thương bản thân đúng cách.
  32. Không biết yêu thương bản thân thì không biết yêu thương cha mẹ và mọi người.
  33. Người ta có hai phần hồn và xác

        Phần hồn mới thực sự là người

        Phần xác chỉ là phần con.

  1. Yêu thương, phải biết yêu thương

        Phần hồn, phần xác yêu thương hài hòa.

  1. Biết yêu thương bản thân đúng cách là gốc của mọi đức tính tốt.
  2. Biết yêu thương bản thân đúng cách là tiền đề, là nền tảng để biết yêu thương mọi người, yêu cuộc sống, yêu tất cả muôn loài, vạn vật.
  3. Ai cũng yêu thương bản thân. Nhưng để biết yêu thương bản thân đúng cách, cần phải có giáo dục.
  4. Từ tâm hay từ bi là tình thương không điều kiện, không đòi hỏi. Đó là đức tính rất tốt đẹp và cao thượng đặc trưng của con người.
  5. Dấu hiệu của từ tâm là muốn giúp đỡ người, xót xa trước nỗi khổ của người, vui mừng trước hạnh phúc của người và biết tha thứ.
  6. Từ tâm, đơn giản nhất chỉ là luôn gửi tình thương yêu theo ánh mắt mỗi khi nhìn nhau, lặng lẽ thương thầm tất cả mọi người không cần họ biết.
  7. Từ tâm ở mức lớn lao, sâu sắc là thật sự thương yêu cả người xúc phạm mình, mưu hại mình.
  8. Có lòng thương người, sẽ được nhiều người thương lại.
  9. Nơi lạnh lẽo nhất chính là nơi thiếu tình yêu thương con người.
  10. Tình bạn là tình người, là quan hệ giữa người với người – là tôn trọng, bình đẳng và hợp tác.
  11. Bạn thân đúng nghĩa như một tâm hồn trong hai cơ thể. Có bạn thân là rất hiếm và quý vô cùng.
  12. Có thể tìm vợ, tìm chồng nhưng không thể tìm mà được bạn thân. Bạn thân là do nhân duyên tự đến.
  13. Giúp nhau lúc khó khăn hoạn nạn mới chỉ là quý

      Vui sướng, hạnh phúc khi bạn hơn mình mới thực là thân.

  1. Có bạn thân là niềm vui, hạnh phúc lớn

      Thêm trí tuệ, sức mạnh và niềm tin.

  1. Đối xử với người thế nào, sẽ được mọi người đối xử lại hơn thế.
  2. Cần hiểu rằng tất cả đều trôi qua, đều tan vỡ và xóa nhòa, chỉ có tình người là mãi mãi.
  3. Đức khiêm hạ là lễ độ, xưng hô cẩn trọng, biết lắng nghe và quan tâm ý kiến của người khác, khiêm tốn, không tự đề cao mình, không chê bai người, luôn cảm thấy mình còn nhiều khiếm khuyết.
  4. Ở đời không ai là toàn thiện, cũng chẳng có người nào chỉ toàn ác. Sự khác biệt giữa người tốt và kẻ xấu là ở tỷ lệ của thiện, ác.
  5. Người vạch cho ta sai lầm là người thầy tốt, chỉ cho ta việc làm sai trái là người bạn tốt. Người biết ta sai mà không nói hoặc phỉnh nịnh ta đều là kẻ có ý hại ta.
  6. Cần biết phân tích, nhận biết con người qua diện mạo, hành vi, giọng nói để ứng xử phù hợp.
  7. Người quân tử chê đúng trước mặt, còn kẻ tiểu nhân thì ngược lại.
  8. Người mà chẳng có gì thì cũng dễ không ra gì.
  9. Thái độ của người ta chủ yếu thể hiện qua ánh mắt và giọng nói.
  10. Bản chất, phẩm chất của con người chủ yếu bộc lộ qua thái độ của hành vi chứ không phải ở hành động thực hiện hành vi.
  11. Chỉ có sự tình cờ, con người mới bộc lộ đúng bản chất.
  12. Công việc càng nhỏ, càng đơn giản, việc không quan trọng càng phản ánh đúng bản chất con người.
  13. Biết không biết, đấy là biết.
  14. Không biết không biết, đấy là không biết.
  15. Vô số thứ vì phần không có của nó mới làm cho phần có của nó trở nên có giá trị.
  16. Cẩn thận là một đức lớn của người có đạo và là nét đẹp của mọi đức khác.
  17. Điều quan trọng không phải là làm gì, mà là làm như thế nào?
  18. Bất kể việc to, nhỏ, khó, dễ và bất kể việc của ai, nếu đã làm hãy làm hết mình để khỏi hổ thẹn.
  19. Cần hiểu đúng giá trị đích thực của mọi sở hữu là ở chỗ nó như thế nào và để làm gì.
  20. Ở đâu cũng sẽ gặp cả người tốt và người không tốt.
  21. Ở đâu cũng có cả sự công bằng và sự bất công.
  22. Từ người ít học đến người học vấn cao, từ bình dân đến nhà lãnh đạo có chức quyền đều có thể là người tốt và có thể là kẻ vô lại.
  23. Trong cuộc sống mỗi khi ở nơi này ta gặp một kẻ thù thì đến nơi khác có thể ta lại gặp người bạn tốt.
  24. Cần biết cách đối xử cởi mở, tử tế với người hòa nhã và cứng rắn với kẻ thô bạo.
  25. Những kẻ tự cao, tự đại vừa thiếu đạo đức, vừa bị thiệt thòi và sẽ thất bại lớn.
  26. Cần có thái độ tích cực, biết cách đón nhận và thích nghi với cuộc sống thăng trầm, vui, buồn, thành công, thất bại, gian nan … nhưng vẫn phải là chính mình.
  27. Cần có thái độ sống tích cực trong mọi trường hợp, mọi biến cố của ngoại cảnh, của cuộc đời.
  28. Cần học cách thích nghi, hòa nhập để chung sống trong các môi trường và cộng đồng khác nhau.
  29. Không gì làm cho con người chóng trưởng thành bằng đối diện với nhiều thử thách.
  30. Cần hiểu rằng hạnh phúc là tại tâm, là những gì mình cảm nhận được tạo nên sự sung sướng đầy đủ trong tâm.
  31. Cần hiểu đúng và có quan điểm đúng đắn về hạnh phúc để hành động đúng, nếu hiểu sai và quan điểm sai có thể cả đời không cảm nhận có hạnh phúc.
  32. Cần hiểu và biết cách tận hưởng hạnh phúc khi đạt được thành tích dù nhỏ, đồng thời cũng biết cách chấp nhận thất bại dù lớn.
  33. Cần biết cảm nhận giá trị tuyệt vời của niềm vui thầm lặng, của hạnh phúc nhỏ sâu thẳm trong tâm.
  34. Người hạnh phúc nhất chính là người đem lại hạnh phúc cho nhiều người nhất.
  35. Biết cảm nhận được thế giới tuyệt vời của sách, là đã nâng tâm hồn và trí tuệ lên ngang tầm thời đại.
  36. Cần có thời gian tĩnh lặng suy tư, tận hưởng về sự huyền bí muôn thủa của cuộc sống: Con chim ưng vỗ cánh vút lên tận trời xanh, đàn kiến nhỏ tíu tít cùng nhau khênh mồi về tổ, đàn cá tung tăng bơi lượn dưới làn nước trong và những bông hoa nở ngát trên cành …
  37. Tôn trọng và bảo vệ thiên nhiên là trách nhiệm, là đạo đức của con người.
  38. Yêu thiên nhiên là đạo đức, là lẽ sống của con người.
  39. Người yêu cây, yêu con vật là người sống có đạo đức, có tình yêu thương con người nồng thắm.
  40. Biết yêu thiên nhiên, biết làm đẹp thiên nhiên là người sống vui, sống yêu đời và hạnh phúc
  41. Cần có bản lĩnh tin vào điều mình đã nghĩ kỹ, cho dù tất cả mọi người đều cho rằng điều đó là không đúng.
  42. Cần biết cách tạo sức mạnh để không a dua chạy theo mốt, thời thế.
  43. Trong cuộc sống có lúc có thể buồn nhưng không thể bi quan.
  44. Cần biết cách mỉm cười khi buồn bã để tìm lại niềm vui ban đầu.
  45. Cần biết rằng không có sự xấu hổ trong những giọt nước mắt.
  46. Cần biết làm ngơ trước dư luận đồn đại không xác đáng … và dũng cảm đứng ra bảo vệ lẽ phải.
  47. Cần có can đảm biểu lộ sự thiếu kiên nhẫn và có đủ kiên nhẫn để biểu lộ sự can đảm.
  48. Cần có đủ bản lĩnh, kiên trì làm lại hàng chục, hàng trăm lần một việc chưa thành với nhiệt tình ban đầu.
  49. Phải luôn có niềm tin mãnh liệt vào bản thân mới có niềm tin vững chắc vào mọi người.
  50. Trong những sự khác biệt của mỗi người thì khác biệt về sự tự tin là quý nhất.
  51. Tự tin và lạc quan có cơ sở thì chưa làm đã nắm chắc thành công và đã được hưởng trước một phần hạnh phúc.
  52. Im lặng trước sự đau khổ là người có bản lĩnh can đảm và cao thượng.
  53. Tự ty là đáng thương lớn, nó kiềm chế sự phát triển của bản thân.
  54. Tự đứng dậy và vươn lên sau khi ngã là hành động thông minh, dũng cảm, rất đáng khâm phục.
  55. Trước mọi khó khăn, có bình tĩnh mới sáng suốt, có sáng suốt mới nhìn thấu mọi vấn đề, mới xử trí đúng.
  56. Điều quan trọng là mình sống với chính mình. Người khen, kẻ chê chẳng nên quá bận tâm song đều cảm ơn và rút kinh nghiệm.
  57. Tuyệt vọng là sự phá sản lớn, rất dễ dẫn đến tiêu cực tai hại.
  58. Trong cuộc sống, mỗi khi gặp người giận, thì ta bớt lời – chỉ có tốt mà thôi.
  59. Cần hiểu rằng sự nóng nảy tai hại tới mức “Một chút lửa sân đốt cháy cả rừng công đức” để phải biết kiềm chế.
  60. Cần biết lắng nghe ý kiến mọi người, nhưng phải sàng lọc bằng trí tuệ và chân lý để chỉ giữ lại những gì tốt đẹp mà thôi.
  61. Cần phải lắng nghe để thấu hiểu và để được thấu hiểu.
  62. Cần biết chế giễu những kẻ yếm thế và cẩn trọng trước sự ngọt ngào, cám dỗ.
  63. Cần bồi dưỡng năng lực độc lập thích ứng với sự sinh tồn của xã hội.
  64. Cần có nhận thức và lẽ sống là: Muốn tiêu tiền thì hãy tự kiếm lấy tiền.
  65. Cần phải biết rằng sẽ bị thiệt, hèn, khổ, nhục nếu không có việc làm, không có thu nhập sạch để tự duy trì cuộc sống.
  66. Cần hiểu rằng tự ta làm ra một đồng còn quý hơn nhặt được hàng trăm đồng.
  67. Phải hiểu rằng việc bán sức lao động và trí tuệ là bình thường nhưng để cho người ta mua tình cảm và tâm hồn là điều sỉ nhục tồi tệ.
  68. Trẻ cần có nhận thức: tiền đi học là tiền đang vay của bố mẹ nên phải biết tiết kiệm chi tiêu và phải đạt được điểm số cao để hạ giá thành đầu điểm.
  69. Chỉ cần có lợi cho việc bồi dưỡng năng lực kiếm sống cho bản thân thì cũng đáng sẵn sàng được nếm mùi gian khổ.
  70. Chỉ trừ không khí và ánh nắng là được tự nhiên ban tặng, mọi thứ còn lại đều phải qua lao động mới có.
  71. Kiếm tiền có thể còn do vận may, nhưng biết tiêu tiền phải cần trí tuệ và đạo đức.
  72. Làm người cần biết tự trọng và tôn trọng để “đừng gây thêm phiền phức cho người khác”.
  73. Trong cuộc sống có thể bị người ta ghét, nhưng không thể để người ta khinh.
  74. Làm thuê để kiếm sống là lẽ thường tình, nhưng không thể để ai lạm dụng lòng tốt của mình.
  75. Cần biết quý trọng và làm giàu thêm,đẹp thêm giá trị bản thân mình, quý trọng và làm đẹp danh dự – thương hiệu bản thân.
  76. Tự cho mình mang một cái tên đẹp thì dễ, nhưng làm cho cái tên đẹp lên thì rất khó, phải dầy công phấn đấu học tập, tu dưỡng.
  77. Biết cái gì đẹp mà yêu nó, cuộc đời ta sẽ tươi đẹp và hạnh phúc hơn.
  78. Không biết làm đẹp, đời thiệt thòi, không hay.

         Không biết thưởng thức cái đẹp, đời vô vị.

  1. Thế gian dẫu có bao nhiêu tỷ con người thì cũng không có một ai giống ai hoàn toàn.
  2. Sự khác biệt giữa mọi người là tất yếu, muôn thủa nên phải tôn trọng nhau để tìm đến cái tương đồng và chung sống.
  3. “Phát minh tình cờ”, nhưng không phải tự nhiên mà có, nó là thành quả của quá trình tích lũy công phu.
  4. Không có kiến thức, không trải qua thực tế thì không thể có phát minh và sáng tạo.
  5. Chưa biết thì phải học. Không học thì dù thông minh đến mấy vẫn dốt.
  6. Cần hiểu tại sao kém hiểu biết là khiếm khuyết lớn nhất, thiệt thòi nhất.
  7. Tiêu chuẩn đánh giá một con người, đánh giá một dân tộc là khát vọng vươn tới sự hiểu biết và trình độ của sự hiểu biết.
  8. Con người càng hiểu được nhiều sự bí ẩn thì càng cảm thấy sung sướng, trẻ trung và hạnh phúc.
  9. Hơn tiền, hơn của mười, không bằng hơn sự hiểu biết một.
  10. Làm bất cứ việc gì cũng cần phải làm với tinh thần tốt nhất, đạt kết quả tốt nhất – đó là danh dự.
  11. Khi công việc trở thành niềm vui thì cuộc sống trở nên tươi đẹp, làm việc thấy nhẹ nhàng dễ thành công.
  12. Mục đích cao cả sẽ tạo ra niềm vui và sức mạnh, sự sáng tạo và nghị lực phi thường.
  13. Tính mục đích luôn quyết định giá trị của hành động. Mục đích cao cả thì hành động được ca ngợi. Mục đích xấu xa thì hành động bị khinh bỉ.
  14. Ước mơ là bánh lái, mục tiêu là động lực để con thuyền vượt sóng tới đích.
  15. Ước mơ tuổi trẻ to lớn, vĩ đại như Biển Trời.

         Mục tiêu tuổi trẻ cụ thể, rõ ràng tầm tay trước mặt.

  1. Khát vọng vươn lên phía trước để mở rộng sự hiểu biết, đó chính là mục đích của cuộc sống.
  2. Hiểu biết, sự nghiệp, tình yêu

         Giàu sang, cống hiến, tỏa sáng

         Là khát vọng tuổi trẻ.

  1. Ý tưởng và ý chí mà như “Chim ưng săn mồi” thì không gì không đạt được.
  2. Cần hiểu ý nghĩa, tầm quan trọng kỳ diệu của ý chí và quyết tâm, của sự nỗ lực và sự cố gắng trong mọi công việc.
  3. Muốn có ý chí và quyết tâm phải có ước mơ lớn và phải trải nghiệm qua cảnh khổ, cảnh khó.
  4. Muốn điều gì thành công thì đừng để vơi niềm tin, đừng để nguội ý chí và luôn cầu mong nó đến.
  5. Hiểu và biết phân biệt giữa lý tưởng và tham vọng sẽ giúp luôn hành xử đúng.
  6. Ý tưởng là mầm, lời nói là cây, kế hoạch là hoa, quả ngọt là phải ở hành động có trí tuệ.
  7. Thanh niên gắn liền với mơ mộng, giàu trí tưởng tượng song cũng cần phải cương nghị và sẵn óc thực hành.
  8. Giá trị đích thực của đời người là ở chỗ đã làm được những gì, ý nghĩa ra sao.
  9. Ý nghĩa của cuộc sống thực ra là ở chỗ dám hành động.
  10. Học sinh Trí Đức chọn phương châm sống:

          Tưởng tượng là phương tiện

          Mục đích là niềm vui

          Cần phải biết mỉm cười

          Cả khi đời cay đắng.

          Hoạt động và im lặng

          Trong thử thách cuộc đời

          Với tình yêu (1) sáng ngời

          Và nụ cười bất tuyệt!

 

  • Tình yêu: là yêu cuộc sống đích thực, trước hết phải biết yêu bản thân đúng cách.

                                                                                  02/2000

  1. Sức khỏe và trí tuệ là tài sản, là vốn quý nhất, lớn nhất của mỗi người.
  2. Cuộc đời của người ta quý ở lẽ sống chứ không phải ở sự sống.
  3. Tự tin, tự trọng, bình thản về thành phần xuất thân, vui sống hòa đồng, nỗ lực học tập tự khẳng định bản thân đó là cách duy nhất đúng để vượt qua cảnh khổ, chiến thắng số phận.
  4. Nghiêm khắc đối với mình, tha thứ đối với người là cách hành xử đúng và tốt nhất trong mọi trường hợp.
  5. Sự độ lượng và tha thứ là lễ vật quý nhất, lớn nhất đối với mỗi người.
  6. Sự giúp đỡ, cưu mang những người nghèo khổ là điều an ủi lớn đối với bản thân.
  7. Sống ở đời cần hiểu ý nghĩa của vị tha và cần có lẽ sống vị tha.
  8. Sống vị tha là kết tinh của đời sống đạo đức.
  9. Cội nguồn đau khổ của con người là chỉ biết sống cho mình, không biết sống vị tha.
  10. Đối với mỗi người không có lời khen nào giá trị hơn sự thừa nhận đó là người giản dị.
  11. Sự giản dị luôn gắn với tính thẳng thắn, trung thực và giàu tình thương.
  12. Tính giản dị thật sự là phẩm chất cao quý, là điều kiện cần thiết của cái đẹp.
  13. Người giản dị thật sự là không kiểu cách, giả tạo, ra vẻ đạo đức, mà trái lại luôn tự nhiên, giữ được đúng bản chất của mình trong mọi trường hợp.
  14. Người giản dị dễ chiếm được niềm tin, dễ thu phục lòng người.
  15. Không có cái gì giản dị mà không đẹp.
  16. Với ai cũng cần phải sống cho trọn nghĩa, vẹn tình để không phải ân hận.
  17. Cần hiểu tại sao tình cảm là món nợ lớn nhất trong cuộc đời để phải trân trọng.
  18. Trẻ mà không biết làm việc nhà thì lớn rất khó có thể hoạt động tốt việc xã hội.
  19. Sống chủ động, tích cực phải biết nhìn nhận về tương lai và tự hoạch định chiến lược cho tương lai.
  20. Không ai yêu ta bằng chính ta yêu ta,

        Không ai lo cho ta bằng chính ta lo cho ta.

        Vì thế, chính bản thân ta phải gia công học, luyện!

  1. Yếu tố cốt lõi quyết định thành công của sự nghiệp học tập là biết cách tự học và cùng học tích cực.
  2. Thu hoạch đáng giá, quan trọng nhất trong những năm cắp sách đến trường và sẽ theo ta suốt cuộc đời chính là phương pháp tư duy, cách tự học, cách cùng học đúng đắn và hệ “giá trị bản thân” mà ta đã rèn luyện, tích lũy.
  3. Tự học tích cực và đúng cách là tiền đề, nền tảng giúp ta biết nghiên cứu, giải quyết công việc và ra quyết định đúng đắn trong đời.
  4. Cùng học tích cực với bạn đúng cách là tiền đề, nền tảng giúp ta biết làm việc nhóm, biết hợp tác, hội nhập và thích nghi tốt trong cuộc sống.
  5. Cần thấu hiểu và quán triệt đúng nghĩa hai từ Học Tập là: Học phải đi với tập làm, Học Hành là: Học phải đi với thực hành.
  6. Chăm học, chăm rèn luyện là thực có hiếu với cha mẹ, là thực yêu quê hương, yêu Đất nước!
  7. Học giỏi, hạnh kiểm tốt là vốn quý nhất để phát triển bản thân và để xây dựng Đất nước!
  8. Học thầy, học bạn, học trong sách vở, học ở tất cả mọi nơi, mọi lúc.
  9. Học kỹ kiến thức cơ bản, học đâu chắc đấy, học đâu luyện đấy, hổng đâu bù đấy.
  10. Học thật, nói thật, làm thật và sống thật mới thành công, thành đạt vững chắc và phát triển cùng thời đại!
  11. Cần hiểu và biết cách chấp nhận thi rớt còn vinh hơn là gian lận lấy điểm cao.
  12. Kết quả của các cuộc thi không thể nhờ may mắn kiểu “há miệng chờ sung”.
  13. Sự đầu tư cho học tập là sự đầu tư cho tương lai, đó là sự đầu tư thông minh nhất, khôn ngoan nhất và hiệu quả nhất.
  14. Không có ông thầy nào, không có nhà trường nào dạy cho người ta mọi điều cần biết nên ta phải tự học ngoài đời và học suốt đời.
  15. Cần thấy rằng dù luôn rèn luyện và phát triển mọi kỹ năng từ bình dị nhất vẫn là chưa bao giờ đủ cho nhu cầu cuộc sống.
  16. Thanh niên thức thời phải thấy: Được sống trong thời hội nhập quốc tế là cơ hội ngàn vàng để phát triển bản thân. Cần nhanh chóng học, làm chủ các “công cụ” của công dân toàn cầu để tạo bệ phóng vào đời gây sự nghiệp.
  17. Việc hôm nay không để ngày mai là phong cách tuổi trẻ, là lối sống trách nhiệm, khôn ngoan.
  18. Do dự, trì hoãn là tính cách không hợp với tuổi trẻ thời đại 4.0.
  19. Thời gian là thứ quý nhất, mỗi phút trôi qua là đời người ngắn lại, không thể bù đắp với bất cứ giá nào.
  20. Giá trị của thời gian luôn quý và lớn hơn mọi của cải vật chất. Bởi mọi thứ có thể làm ra, riêng thời gian thì không thể.
  21. Tư duy hợp tác để cùng thắng, chính là mình luôn thắng.
  22. Tinh thần hợp tác đúng đắn là: Cùng nghĩ, cùng làm, cùng chịu trách nhiệm và cùng hưởng.
  23. Cần hiểu rằng cho ai là mình được, dạy ai chính là mình tự học lại một cách tích cực để hiểu sâu hơn.
  24. Quy tắc sống an toàn, văn minh muôn thủa là: Lúc nào và ở đâu cũng phải biết tự kỷ luật và tôn trọng kỷ luật.
  25. Kỷ luật là thước đo của danh dự, lòng tự trọng và trình độ văn hóa, văn minh của con người. Nó tạo ra sức mạnh giúp người ta thực hiện ước mơ và tận hưởng được hạnh phúc!
  26. Đạo đức là những khuynh hướng tốt trong tâm con người, tạo nên những lời nói, hành vi khiến mọi người chung quanh được chuyển hóa, an vui, lợi ích.
  27. Đạo đức là cha đẻ của công đức, công đức là cha đẻ của ý chí, ý chí là cha đẻ của mọi hành vi tốt.
  28. Dấu hiệu của kết quả tu dưỡng đạo đức là thấy được sai lầm, thấy được lỗi của bản thân và phát tâm chuộc lỗi.
  29. Cần hiểu và biết phân biệt giữa chỉ lỗi và chỉ trích để biết cách góp ý cho nhau khi mắc lỗi không làm mất danh dự của người phạm lỗi.
  30. Muốn góp ý cho người, cần xét tâm mình phải có tình thương yêu.
  31. Muốn người ta tin và tôn trọng vấn đề gì, trước hết phải làm cho người ta hiểu.
  32. Cái quý của góp ý cho người mắc lỗi là giúp họ sửa được lỗi từ trong tâm, làm cho họ tốt từ trong tâm, không phải chỉ tốt ở hành vi bên ngoài.
  33. Sự cảm hóa của lời chỉ lỗi phụ thuộc vào thiện tâm của người mắc lỗi và đức hạnh của người chỉ lỗi.
  34. Cần hiểu và rèn tính nhẫn để làm hành trang cuộc đời.
  35. Cần hiểu bình đẳng là thái độ đạo đức quan trọng luôn được sử dụng khi đối xử với mọi người.
  36. Cần hiểu cái xấu, cái hại của đố kỵ để tránh xa, không để xuất hiện thái độ khó chịu khi thấy người khác hơn mình.
  37. Tính ghen tỵ là thói xấu, là sự cản trở tiến bộ của bản thân.
  38. Cần hiểu và biết cách tránh xa sự ganh ghét, cố chấp, thù oán.
  39. Những người hay bắt nạt người khác là kẻ xấu và chính là kẻ dễ bị đánh bại nhất.
  40. Hạng người hay gây gổ đánh nhau là những kẻ vô đạo đức, với cái đầu ngu xuẩn.
  41. Cần biết ý nghĩa và sức mạnh kỳ diệu của niềm tin đúng và hậu quả tệ hại nếu tin mù quáng, không căn cứ.
  42. Cần biết dùng con mắt trí tuệ và tính cẩn trọng để chỉ chọn đúng điều gì đáng tin.
  43. Không làm việc xấu còn dễ, không nghĩ xấu là điều rất khó.
  44. Mỗi ý nghĩ xấu đều tai hại, cần biết cách loại bỏ nó ra khỏi đầu óc.
  45. Hãy phấn đấu không nghĩ xấu, không làm điều gì xấu để bộ óc khỏi nhọc nhằn, tâm hồn khỏi dằn vặt.
  46. Cần ghi nhớ suốt đời “tuyệt đối không phụ bạc điều gì”, không nghĩ, không làm điều gì ác.
  47. Cần tự nhận cái sai, nhận lỗi, chí ít phải biết nhận lỗi sai khi được người khác chỉ cho.
  48. Cần hiểu ý nghĩa, giá trị lớn lao của việc biết thành thật xin lỗi.
  49. Cần biết cách xin lỗi đúng đắn để sau mới biết cách sửa lỗi.
  50. Cần hiểu những vấn đề đạo lý liên quan đến hành vi sai phạm để có thể tự nhận ra lỗi.
  51. Mắc lỗi mà không biết lỗi, được người chỉ lỗi mà không nhận thì không thể nên người.
  52. Người có Đạo là người biết sống, người biết sống phải biết nói câu: “Cảm ơn”, “xin lỗi”!
  53. Lời nói phát ra từ nội tâm, từ sự trăn trở sẽ có sức hấp dẫn lớn, thẩm thấu vào tận nội tâm người nghe, làm chuyển hóa và thuyết phục được họ.
  54. Mỗi lời nói luôn thể hiện cả trí tuệ, đạo đức và tâm hồn, nó ảnh hưởng tới cả người nói lẫn người nghe.
  55. Sống làm người phải biết ơn: Cha mẹ, Thầy giáo, Chính phủ và Trời Đất!
  56. Biết làm người thì mọi ơn phải nhớ và mọi thù nên quên.
  57. Muốn báo hiếu cha mẹ, trước hết phải nên người.
  58. Trên đời không ai yêu thương ta, biết ta, quý ta bằng mẹ ta.
  59. Cần hiểu tội lỗi lớn nhất của con người là bất hiếu với cha mẹ.
  60. Không hiếu với cha mẹ mà đi lễ, đi cầu đình, chùa, đền, miếu thì sao được chứng là thành tâm?
  61. Cha mẹ còn sống mà không hiếu, khi qua đời mới làm ma to, cúng lớn là vô nghĩa.
  62. Trẻ biết làm bổn phận làm con và bổn phận làm trò thì lớn sẽ biết làm bổn phận công dân.
  63. Không biết làm bổn phận làm con, thì sau khó có thể biết làm tròn bổn phận cha mẹ và càng không thể làm gương tốt cho con.
  64. Không hiếu với cha mẹ là không biết làm người! Hiếu không gì bằng làm vui lòng cha mẹ! Làm vui lòng cha mẹ không gì bằng hạnh kiểm tốt, học tập tốt!
  65. Nếu thành tâm muốn tu thân thì không tu đâu bằng tu nhà.
  66. Không thờ gì bằng thờ cha mẹ mình.
  67. Đức tính quý nhất của người đàn ông là Mạnh mẽ! Mạnh mẽ là chiến thắng được bản thân! Chiến thắng bản thân là biết tự kiềm chế!
  68. Đức tính quý nhất của người phụ nữ là Hiền dịu! Hiền dịu là vị tha, giàu tình cảm, chân thành cởi mở, nhẹ nhàng tế nhị!
  69. Tình yêu nam – nữ là tình cảm tốt đẹp tự nhiên mà tạo hóa ban cho con người, là bản năng mạnh mẽ thứ hai sau bản năng sinh tồn nên có quyền đón nhận và phải học để biết đón nhận.
  70. Tình yêu là thứ tình cảm nồng nhiệt nhất, mạnh mẽ nhất nhưng đừng để nó hủy hoại sự nghiệp của mình.
  71. Cần biết bày tỏ quan điểm khác biệt của mình với thái độ tự trọng và tôn trọng.
  72. Cần thể hiện quan điểm, sự bất đồng trong không khí cởi mở thân thiện và tôn trọng.
  73. Cần biết cách bày tỏ chính kiến của mình trước một vấn đề, một hiện tượng, một sự kiện về kinh tế, chính trị, xã hội … của Đất nước và thế giới.
  74. Cần luôn biết giữ lời hứa. Đó là đạo đức, là danh dự và uy tín của con người.
  75. Muốn tạo và giữ được tình, nghĩa, đoàn kết thì không gì hơn là biết nhường, nhịn, đúng đắn.
  76. Nguyên tắc giữ tình bạn là không vay, không mượn, không phiền hà.
  77. Nguyên tắc giữ đối tác quan hệ làm ăn là mình chịu thiệt một tí.
  78. Đam mê là cha đẻ của thành công.
  79. Làm gì cũng phải bằng tình yêu mới có sáng tạo và hiệu quả.
  80. Làm gì cũng phải gắn với trách nhiệm và danh dự bản thân thì sẽ tránh được sai lầm.
  81. Nuôi tai, nuôi mắt đắt hơn nuôi miệng rất nhiều. Thỏa mãn tâm hồn thì vô giá.
  82. Cuộc đời của loài kiến bé nhỏ là bài học nhân sinh thấm thía cho sự tồn tại và phát triển của con người và cộng đồng xã hội mọi thời đại.
  83. Loài vật trên cạn, dưới nước còn nhớ đường, vượt muôn trùng gian khó, hy sinh để trở về nơi sinh ra. Con người không thể không yêu quê cha đất Tổ.
  84. Búp sen mọc từ bùn nước mà lại tỏa hương thơm ngát về bài học đạo lý làm người.

  

        Điện thoại: 0243.768.6902

      Website: www.thpttriduc.edu.vn

       Email: c3triduc@hanoiedu.vn

 

              258. Ý nghĩa của lô gô – phù hiệu học sinh
TRƯỜNG THPT TRÍ ĐỨC

 

Các em học sinh  Trường THPT Trí Đức rất yêu quý ! Thầy viết bài này tặng các em để hướng dẫn các em suy nghĩ, tìm hiểu về ý nghĩa của phù hiệu học sinh Trường ta. Đó chính là mục tiêu giáo dục, đào tạo của trường Trí Đức. Từ đó các em có hướng rèn luyện, phấn đấu trong học tập và tu dưỡng đạo đức.

Khi thành lập một nhà trường, bao giờ người ta cũng đặt cho một cái tên vừa để gọi, để phân biệt với trường khác, vừa còn muốn nhấn mạnh một số ý nghĩa nào đó. Thường, người  ta đặt theo danh Nhân hoặc Địa danh. Còn Trường của chúng ta thì Thầy lại cho khai sinh bằng cái tên Trí Đức. ở đây Thầy đã cân nhắc rất kỹ, phân tích và tổng hợp, sàng lọc để lựa chọn. Cuối cùng Thầy đã dùng hai từ ghép Trí Đức muốn khái quát hoá toàn bộ từ nhiệm vụ, mục tiêu chung của trường Phổ thông đến những tinh hoa truyền thống của dân tộc Việt Nam ta. Đó là mục tiêu của giáo dục đào tạo ở mọi thời đại, và cũng là nguồn gốc của mọi nền văn minh nhân loại. Hai từ Trí Đức rất bình dị mà thật thanh cao, rất gần mà lại vô biên. Trí Đức là khát vọng vươn tới của mỗi con người, mỗi quốc gia và cả nhân loại.Trí Đức bình đẳng cho mọi người, không phụ thuộc vào chế độ xã hội. Bất kỳ một nhà giáo dục chân chính nào cũng thấy rõ điều đó. Loài người càng tiến bộ, văn minh thì nội dung của Trí Đức càng cao đẹp. Trí Đức càng cao đẹp thì làm cho nhân loại càng văn minh và hạnh phúc. Nghĩa là Trí Đức với loài người là nguyên nhân và hệ quả của nhau, cùng tồn tại và phát triển mãi mãi…

Việc tự đặt cho mình cái tên Trí Đức là lời tuyên bố, lời hứa danh dự sắt son của Trường ta trước xã hội, trước nhân loại về sự tuyệt đối trung thành với mục tiêu của giáo dục phổ thông, trong đó đặc biệt chú trọng bồi dưỡng trí tuệ và nâng cao đức hạnh cho học sinh. Tên trường cũng như tên một con người. Nếu ai đó nhắc đến tên một người thì ta có thể hình dung ngay gương mặt, tầm vóc, nước da, giọng nói, tư cách và nhân cách … của người đó. ở đây Thầy muốn dùng hai từ Trí Đức đặt tên cho Trường để mọi thành viên của Trường lấy đó mà phấn đấu, để mỗi khi ai đó nhắc tới tên trường Trí Đức là người ta hình dung ra ngay những con người cụ thể ở Trường chúng ta có những phẩm chất tốt đẹp như cái tên của Trường vậy…

Các em hãy nhìn trên phù hiệu thấy dòng chữ “THPT Trí Đức  thật giản dị đặt ở vị trí thấp nhất biểu hiện một sự khiêm tốn song cũng là vững chãi nhất. THPT Trí Đức thật vững mạnh sẽ trang bị cho HS đầy đủ, hoàn hảo kiến thức và kỹ năng, phẩm chất và năng lực tạo bệ phóng cho các em vào đời. Dòng chữ mang tên Trường có màu đỏ tươi như là dòng máu nóng đầy nhiệt huyết, đầy tình yêu thương của tập thể các Thầy, Cô giáo Nhà trường đã dành cho học sinh không bao giờ ngừng nghỉ. Ngay bên trên là biểu tượng của trang vở, quyển sách luôn đồng hành cùng học sinh Trí Đức ngày đêm rèn đức luyện tài. Đồng thời đó cũng là biểu trưng cho đôi cánh Chim ưng quân tử không mỏi, với ý chí gang thép dũng mãnh sẽ nâng chúng ta lên và đưa chúng ta bay đi tới những chân trời mới của sự hiểu biết, của trí tuệ và văn minh, để chúng ta có thể sống và làm bạn với mọi người trên khắp hành tinh này. Ngoài trang vở quyển sách học trò, ngoài cánh chim không mỏi, đó còn tượng trưng cho chiếc lá với nhiệm vụ quang hợp ánh sáng mặt trời để chuyển hóa các chất lấy từ đất và nước thành dinh dưỡng nuôi hoa thơm quả ngọt.

Nổi bật ở vị trí trung tâm là hình tượng búp Sen hồng căng tròn sắp đến độ nở, ở thời điểm đẹp nhất. Tại sao khi sáng lập Trường mình Thầy lại chọn biểu tượng búp Sen hồng cho học sinh Trí Đức? Trước hết, mỗi học sinh các em như búp như hoa trên cành cho nên người ta thường nói là “Hoa học trò” nghĩa là rất đẹp đẽ, trẻ trung, thơ mộng và nhiều hy vọng. Vấn đề là giữa muôn vàn loại hoa khác nhau, có rất nhiều loại hoa đẹp lộng lẫy, nhiều loại hoa có hương thơm quý phái, thế mà ở đây Thầy lại chọn búp Sen hồng. Tại sao Thầy không chọn: ví dụ bông hồng nhung mà người ta vẫn mệnh danh cho là “Bà chúa các loài hoa”.  Bởi vì các loại hoa đó có loại đẹp sắc thì không hương, được hương thơm thì không sắc, được cả hương sắc thì không kết trái, có loại kết trái thì trái vô dụng, có loại trái hữu ích thì hoa chẳng ra sao…. Ngoài ra chúng lại đòi hỏi phải nuôi trồng trong những điều kiện thích hợp… Thế còn búp Sen thì sao? Chúng ta hãy điểm qua các ưu điểm của nó :

  1. Sen là một trong số rất ít loài cây mà người trồng lại không phải làm đất, không phải chăm bón, không kén chọn đất vẫn rất tươi tốt, đầy sức sống. Có thể nói vào đâu Sen cũng sống, ở đâu Sen cũng tươi tốt. Nhà trường muốn dạy, rèn cho học sinh Trí Đức luôn yêu đời, yêu cuộc sống, muốn các em phấn đấu như Sen để luôn thích nghi với mọi hoàn cảnh, mọi môi trường sống và ở đâu cũng sẽ sống khỏe, sống tốt, sống đẹp.
  2. Sen không cao to đồ sộ, thân mềm, sống với bùn nước giữa mênh mông đất trời nhưng không hề có loại sâu bọ, côn trùng nào phá hoại được. Chúng ta muốn rèn luyện như Sen để có bản lĩnh vững vàng, có kháng thể mạnh mẽ chiến thắng được kẻ xấu kẻ ác, chiến thắng bệnh tật giữ cho thân thể luôn khỏe mạnh cường tráng.
  3. Hoa Sen không bao giờ mọc thành chùm, không mọc từ cành nhánh mà luôn mọc từng bông một trực tiếp từ thân. Điều này muốn nhắc học sinh Trí Đức luôn gắn kết với cội nguồn, nghĩ về gia đình và làm tròn bổn phận là con. HS Trí Đức không a dua đàn đúm, luôn có bản lĩnh vững vàng và có tính tự lập tự cường rất cao. Hoa Sen khi mọc ra vút thẳng lên và vừa xuyên qua bùn nước đã như một bàn tay Tiên búp măng tuyệt đẹp. Các em hãy phấn đấu như vậy: Thẳng thắn, mạnh mẽ, dũng cảm vươn lên giữa đường đời phức tạp đầy biến động nhưng dù hoàn cảnh nào vẫn giữ được vẻ đẹp tự nhiên cốt cách vốn có của mình, luôn xác định và giữ được truyền thống gốc gác của ông cha.
  4. Sen còn là tượng trưng cho tính vô nhiễm. Chẳng những cuống rỗng, ngó rỗng song bùn nước cũng không len vào được. Lại càng lạ hơn: tuy mọc lên từ bùn nước, hấp thụ thức ăn từ bùn nước nhưng cánh hoa trắng muốt hoặc hồng tươi tinh khiết, hương thơm thanh nhã chẳng hề nhuốm mùi bùn.

Trong đầm gì đẹp bằng sen,

Lá xanh bông trắng lại chen nhị vàng;

Nhị vàng bông trắng lá xanh,

Gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn.

                                           (Ca dao Việt Nam)

              Thầy, trò trường Trí Đức luôn luôn và mãi mãi tôn thờ Sen, noi theo đức tính đó của Sen. Mặc dù trong cuộc sống thường xuyên phải tiếp xúc, đối mặt, chung sống với nhiều thói hư tật xấu, nhiều tệ nạn xã hội song quyết giữ mình, rèn luyện mình không để hoàn cảnh xấu, người xấu chi phối lây nhiễm. ở đây Thầy muốn mượn cái đức Trời cho của Sen để nói về sự làm chủ bản thân, nhắc các em phải coi trọng việc tu thân. Bởi có tu thân thì mới bảo vệ được mình và còn là đầu mối để tiến tới tề gia (tức là biết tổ chức và xây dựng cuộc sống gia đình) mà gia đình là tế bào của xã hội. Có tổ chức tốt cuộc sống gia đình thì mới có hạnh phúc và có năng lực tham gia công tác xã hội, phát triển Đất nước.

  1. Cuống lá, cuống hoa Sen tuy có gai rất cứng nhưng không sắc nhọn, không làm xước da chảy máu tay người: Chúng ta cần có bản lĩnh cứng rắn vững vàng, có sức khỏe thật tốt, và biết cách tự bảo vệ bản thân mình mà không làm hại đến ai.
  2. Bất kỳ bông Sen nào đã mọc lên đều nở và sau khi nở đều kết trái cho hạt. Đó là điều cực quý và hiếm. Nhà trường và tất cả các em – những học sinh đã tự nguyện tìm đến theo học tại Trí Đức, đó là những học sinh dũng cảm với khát vọng “Tầm Sư học Đạo” đúng đắn muốn tìm đến thầy thực tài, tâm huyết, môi trường giáo dục chân chính để rèn đức luyện tài thực sự, để nên người, trưởng thành vững vàng. Chúng ta hãy cùng nhau phấn đấu với nỗ lực cao nhất để tất cả đều thành đạt, đều thực hiện được ước mơ cao đẹp, khát vọng cháy bỏng của mình.
  3. Điều quan trọng hơn là sự thành đạt đó như thế nào và sử dụng để làm gì? Chúng ta hãy học tập từ Sen. Sen chỉ sống với bùn nước nhưng từ gốc tới ngọn không có gì là không quí, mọi thứ của Sen đều giúp ích cho con người: Hương Sen là loại hương quý, người đời dùng ướp trà, làm bánh kẹo, nấu chè ăn… Hạt Sen vừa là loại thuốc quí vừa là thức ăn bổ dưỡng. Mầm trong hạt Sen gọi là Tâm sen chữa tim hồi hộp, chữa mất ngủ. Củ và ngó sen đều là thức ăn ngon, bổ dưỡng và đều là thuốc cầm máu, an thần. Tua nhị Sen, vỏ gương Sen, lá Sen đều là các vị thuốc cầm máu, chữa băng huyết, thổ huyết, tiêu ứ, khó tiểu tiện….Lá Sen thường dùng bọc cơm, gói cốm, vừa giữ cho cốm khỏi khô vừa tạo hương thơm đặc trưng không lá gì có thể thay thế…

    Xét tổng thể phải nói rất hiếm có loại cây nào, loại hoa nào được sống trong điều kiện đơn giản chỉ là bùn, nước mà lại đạt tới kết quả tuyệt đỉnh như vậy, ở đó chứa đựng đầy đủ các giá trị thẩm mỹ, tinh thần và vật chất tuyệt hảo như Sen! Phải chăng, Sen là sự hội tụ những tinh hoa của âm dương, của đất trời, những tinh tuý của thiên nhiên, của vũ trụ! Và trong thiên nhiên cũng như xã hội loài người có hình ảnh tương phản nào đạt tới độ chín, độ đẹp như Sen với bùn? Bởi thế, người đời đã ca ngợi Sen, cho Sen là loài hoa phi phàm, loài hoa quân tử, hoặc để ví với người quân tử. Cũng có lẽ vì thế mà từ bao đời nay đã có không biết bao nhiêu thơ văn ca ngợi Sen. Sen là thứ hoa gắn liền với đời sống vật chất và tinh thần của con người. Sen đẹp, Sen thơm, Sen tượng trưng cho sự trinh trắng, cao khiết. Sen được cắm trên Ban thờ, Phật ngồi trên toà Sen cho người ta khấn vái. Sen quả là tấm gương sáng, hoàn hảo cho con người noi theo trong rất nhiều trường hợp cả xưa, nay và mãi mãi mai sau…

   Vì vậy, Thầy cũng như Nhà trường muốn học sinh Trí Đức hãy noi theo hoa Sen: mặc dù được xuất phát từ vị trí còn khiêm tốn, dù phải trải qua rất nhiều khó khăn nhưng với ý chí và nghị lực mạnh mẽ, với tinh thần cần cù nhẫn nại, được ước mơ cao đẹp soi sáng và tiếp thêm sức mạnh chúng ta quyết  tự vươn lên đạt đỉnh điểm của sự thành đạt khiến ngươì đời phải ngưỡng mộ, thán phục. Thầy muốn mỗi học sinh Trí Đức hãy là một bông Sen, noi theo bông Sen, đem sự thành đạt giúp ích cho đời. Và khi thành đạt, đã đẹp đã thơm, vẫn giản dị khiêm nhường, luôn giữ được sự trinh trắng cao khiết, thơm nhưng thoang thoảng, thanh nhã mà nồng đượm.

Phía trên bông Sen là những vì sao. Mỗi vì sao lấp lánh chứa đựng biết bao sự bí ẩn. Trên bầu trời, trong không gian vũ trụ có muôn vàn vì sao, không bao giờ đếm hết được. Bầu trời chứa vô vàn vì sao, mỗi vì sao chứa vô vàn điều bí ẩn. Trong khi cả xã hội loài người của chúng ta chỉ sống trên một trái đất như một vì sao bé nhỏ kia. Vậy thì những điều mà loài người chưa biết còn vô cùng vô tận. Như vậy bầu trời, không gian vũ trụ tự nhiên bao la kia cũng chính là bầu trời tri thức vô cùng rộng lớn và phong phú đang vẫy gọi những ai muốn khám phá. Hy vọng trong đó có những học sinh Trí Đức ưu tú của chúng ta.

Tất cả được hiện lên nổi bật trên nền màu xanh tươi sáng bao la. Đó là màu của tuổi trẻ, của sự sống, của niềm tin và hy vọng. Bởi học sinh Trí Đức luôn trẻ trung, yêu đời, đầy lạc quan tự tin vào chính mình. Đó cũng là màu của hoà bình và sự hợp tác, của khát vọng làm bạn với mọi người. Màu của nước, của mây, của hoài bão ước mơ muốn vươn xa bay cao để được khám phá, tích luỹ làm giàu thêm kho tàng tri thức của nhân loại.

Cuối cùng còn một chi tiết nữa rất đặc biệt cần bàn đến chính là nơi đặt tên trường Trí Đức, đặt bông sen và cánh chim. Nhìn vào ta thấy nơi đó như mặt biển nước mênh mông. Đúng vậy! Đó là mặt đại dương. Nói đến đại dương tức là nói đến trái đất của chúng ta. Như thế nghĩa là trường Trí Đức tồn tại được, thầy trò ta sống được, làm việc, học tập và được vui chơi sung sướng hạnh phúc là hoàn toàn nhờ vào, dựa vào trái đất. Cũng như thế không phải chỉ trường Trí Đức chúng ta mà là cả nhân loại. Và ở đây bông sen, cánh chim kia chính là tượng trưng cho tất cả mọi loài sinh vật cũng đang được sống nhờ vào, dựa vào và phụ thuộc vào Trái đất. Như vậy mọi sự sống trên hành tinh này là hoàn toàn nhờ và phụ thuộc vào trái đất, vào thiên nhiên. Tất cả ngụ ý, muốn nhắc nhở rằng: Con người có tài giỏi, văn minh đến đâu cũng chỉ bắt chước thiên nhiên, rất nhỏ bé so với thiên nhiên, luôn sống trong thiên nhiên, dựa vào thiên nhiên và phụ thuộc vào thiên nhiên. Bởi vậy phải biết ơn trái đất, phải biết ơn thiên nhiên. Chúng ta, tất cả chúng ta phải biết tôn trọng thiên nhiên, tôn trọng quy luật của thiên nhiên, bảo vệ thiên nhiên, góp phần làm phong phú và làm đẹp thêm cho trái đất, cho thiên nhiên. Chỉ có thế, cuộc sống của con người mới ổn định, bình an, mới tốt lên. Đó cũng là một trong những mục tiêu của giáo dục chân chính. Đó là lẽ sống của tất cả chúng ta!            

Trí Đức, ngày 19 tháng 3 năm 1999

 

  1.        Học sinh Trí Đức xin thề

           Chưa thành sự nghiệp chưa về quê hương!

BÀI VIẾT LIÊN QUAN